Theo một nghiên cứu từ Đại học Massachusetts (Mỹ) cho thấy, rối loạn cương dương xuất hiện ở nam giới từ 40 đến 70 tuổi, chiếm khoảng 50%. Người ta cũng ước tính khoảng 150 triệu nam giới trên toàn thế giới có rối loạn cương dương. Tình trạng rối loạn cương dương ở nam giới (dưới 40 tuổi) chiếm khoảng 40%.
Tại Việt Nam, tình trạng này ngày càng phổ biến và có xu hướng trẻ hóa. Nam giới ở độ tuổi 18 - 20 cũng có nguy cơ mắc bệnh, thậm chí còn có chiều hướng gia tăng mạnh.
Thế nào là rối loạn cương dương?
Rối loạn cương dương là một rối loạn chức năng tình dục ở nam giới, là tình trạng dương vật không cương cứng lên được hoặc không đủ cương cứng để thực hiện quá trình giao hợp.
Rối loạn cương dương là một bệnh lý xảy ra ở nam giới xuất hiện từ ngàn đời xưa và đang ngày càng phổ biến hiện nay. Bệnh lý này không phải là một bệnh quá nguy hiểm ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng của nam giới. Tuy nhiên, nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống cũng như bản lĩnh và niềm tin của người đàn ông. Thậm chí, bệnh lý này còn là nguyên nhân gây tan vỡ hạnh phúc lứa đôi.
Nguyên nhân của bệnh lý rối loạn cương dương là gì?
* Do tâm lý: căng thẳng thần kinh, mệt mỏi, stress có thể tác động và gây khó khăn để đạt được sự cương cứng.
* Suy giảm tập trung trong quan hệ tình dục.
* Yếu tố liên quan đến thần kinh: Trầm cảm, một số bệnh thần kinh khác…
* Mắc một số bệnh lý về chuyển hóa: Tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường.
* Rối loạn nội tiết.
* Sử dụng chất kích thích như: cafe, thuốc lá, rượu và ma túy…
* Sử dụng các loại thuốc như: thuốc hạ huyết áp, thuốc chống trầm cảm, một số thuốc an thần, thuốc lợi tiểu…
* Các rối loạn làm giảm lưu lượng máu hoặc gây tổn thương đến các dây thần kinh trên dương vật.
Cách nhận biết rối loạn cương dương.
* Nam giới không có hoặc giảm ham muốn tình dục và dương vật không thể cương cứng được.
* Nam giới có ham muốn tình dục nhưng dương vật không thể cương cứng.
* Dương vật có thể cương cứng nhưng chỉ trong thời gian ngắn, không thể duy trì quan hệ tình dục.
* Dương vật cương cứng bất thường.
Rối loạn cương dương chữa như thế nào?
Nhóm thuốc giãn mạch tác động trực tiếp trên dương vật.
- Nhóm thuốc này bao gồm papaverin, prostaglandin E1 (Carveject) được chỉ định cho những trường hợp rối loạn cương dương có nguyên nhân từ thần kinh (tổn thương tủy), nguyên nhân do mạch máu, tâm lý ngoài ra chúng còn được sử dụng để thăm dò tìm nguyên nhân gây rối loạn cương.
Các thuốc này được sản xuất dưới hai dạng:
- Chế phẩm đường đặt niệu đạo như MUSE 500mcg, bệnh nhân được hướng dẫn đặt niệu đạo trước giao hợp 10 phút. Tác dụng phụ là dễ gây kích ứng làm loét niệu đạo.
- Chế phẩm được dùng theo đường tiêm là Carverject 20mcg tiêm trực tiếp vào thể hang phần gốc dương vật. Tác dụng của thuốc xuất hiện sau khi sử dụng khoảng 5-10 phút và kéo dài khoảng 1h.
Phương pháp sử dụng chất giãn cơ trực tiếp vào dương vật này do có tác dụng phụ như bầm tím, tụ máu, xơ hóa, loét niệu đạo, cương đau dương vật kéo dài, cong vẹo dương vật nên ít được sử dụng.
Nhóm ức chế PDE5.
Hiện nhóm thuốc này đang là lựa chọn đầu tay của các bác sĩ cho các bệnh nhân bị rối loạn cương dương. Nhóm này gồm các hoạt chất như Sildenafil, Tadalafil, Vardenafil được chỉ định điều trị cho phần lớn trường hợp có rối loạn cương dương. Hiệu quả điều trị có thể cải thiện được khoảng 80% nam giới rối loạn cương dương. Các lọa thuốc cường dương tốt nhất hiện nay : Thuốc cường dương ngựa thái, kẹo sâm hamer, thuốc japan tengsu...
Thuốc được sử dụng đường uống theo hai cách:
+ Cách thường dùng nhất là dùng theo yêu cầu, cho bệnh nhân uống trước khi giao hợp 1 giờ đồng hồ, có tác dụng sau uống 30 phút và hết tác dụng sau khoảng 10 -36 tiếng đồng hồ tùy từng thuốc.
+ Cách thứ hai ít được dùng hơn là dùng theo liều hàng ngày, các bác sĩ sẽ dò liều tối thiểu có tác dụng thường là 50mg với Sildenafil, 10mg với Vardenafil, 20mg với Tadalafil sau đó duy trì dùng thuốc như thế nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Cách này được áp dụng khi cách dùng liều theo yêu cầu chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cần lưu ý là khi dùng nên bắt đầu từ liều thấp có tác dụng và cần phải thận trọng khi phối hợp thuốc với các thuốc tim mạch huyết áp, với người bệnh bị tiểu đường liều khởi đầu cần cao hơn.